Ester hóa là gì? Các công bố khoa học về Ester hóa

Este hóa là phản ứng giữa axit carboxylic và alcohol tạo thành este và nước, thường được xúc tác bởi axit mạnh như axit sulfuric. Cơ chế phản ứng gồm bốn bước: proton hóa, tấn công nucleophile, chuyển đổi và khử proton. Phản ứng chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ, xúc tác, tỷ lệ mol và loại phân tử tham gia. Công nghiệp ứng dụng este hóa rộng rãi để sản xuất nhựa, tạo mùi thực phẩm và mỹ phẩm. Hiểu cơ chế este hóa giúp tối ưu hóa điều kiện sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Khái niệm và định nghĩa về Este hóa

Este hóa là một loại phản ứng hóa học quan trọng trong hóa học hữu cơ, trong đó một axit carboxylic và một alcohol phản ứng với nhau để tạo thành một este và nước. Quá trình này thường được xúc tác bởi một axit, chẳng hạn như axit sulfuric.

Cơ chế phản ứng Este hóa

Cơ chế của phản ứng este hóa bao gồm các bước sau:

  1. Phản ứng proton hóa: Gốc hydroxyl (OH) của axit carboxylic được proton hóa bởi axit xúc tác, tạo thành một ion oxonium.
  2. Tấn công nucleophile: Alcohol đóng vai trò là nucleophile tấn công vào carbonyl carbon của axit carboxylic, mở rộng chuỗi oxy-carbon, và tạo thành một phân tử trung gian.
  3. Chuyển đổi proton: Phân tử trung gian chuyển nhượng proton dẫn đến việc hình thành nước (H2O) và phân tử oxonium.
  4. Khử proton hóa: Phân tử oxonium bị khử proton, kết thúc quá trình với việc hình thành một este.

Điều kiện và yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng Este hóa

Phản ứng este hóa bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm:

  • Nhiệt độ: Tăng nhiệt độ có thể tăng tốc độ phản ứng nhưng cũng có thể gây phân hủy nếu quá cao.
  • Xúc tác: Axit mạnh như H2SO4 thường được sử dụng để thúc đẩy phản ứng.
  • Tỷ lệ mol: Tỷ lệ mol giữa alcohol và axit cũng ảnh hưởng đến tốc độ và hiệu suất phản ứng.
  • Loại phân tử tham gia: Các nhóm thế trên alcohol và axit có thể ảnh hưởng đến tính khả phản ứng của este hóa.

Ứng dụng của Este hóa trong công nghiệp

Phản ứng este hóa có nhiều ứng dụng quan trọng trong công nghiệp, bao gồm:

  • Sản xuất nhựa và polymer: Este là một thành phần chính trong việc sản xuất nhiều loại polymer như polyester.
  • Công nghiệp thực phẩm: Este được sử dụng rộng rãi như các chất tạo mùi và hương liệu trong thực phẩm.
  • Sản xuất mỹ phẩm: Được pha chế trong nhiều sản phẩm mỹ phẩm như lotion và dầu xoa bóp để cải thiện tính chất bề mặt và mùi hương.

Kết luận

Phản ứng este hóa là một quá trình quan trọng không chỉ trong phòng thí nghiệm mà còn trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Hiểu rõ cơ chế và các yếu tố ảnh hưởng của quá trình này giúp tối ưu hóa điều kiện sản xuất và cải thiện chất lượng sản phẩm.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ester hóa":

Khuyến nghị hướng dẫn của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ/Trường Đại học bệnh học Hoa Kỳ về xét nghiệm mô hóa miễn dịch thụ thể estrogen và progesterone trong ung thư vú
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 28 Số 16 - Trang 2784-2795 - 2010
Mục đíchPhát triển một hướng dẫn nhằm cải thiện độ chính xác của xét nghiệm mô hóa miễn dịch (IHC) các thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PgR) trong ung thư vú và tiện ích của những thụ thể này như là các dấu hiệu dự đoán.Phương phápHiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ và Trường Đại học bệnh học Hoa Kỳ đã triệu tập một Hội đồng Chuyên gia quốc tế, thực hiện một tổng quan và đánh giá hệ thống về tài liệu cùng với sự hợp tác của Cancer Care Ontario và phát triển các khuyến nghị nhằm tối ưu hóa hiệu suất xét nghiệm IHC ER/PgR.Kết quảCó thể lên đến 20% các xét nghiệm xác định IHC hiện tại về ER và PgR trên phạm vi toàn cầu không chính xác (âm tính giả hoặc dương tính giả). Hầu hết các vấn đề với xét nghiệm đã xảy ra do sự biến động trong các biến số tiền phân tích, ngưỡng dương tính và tiêu chuẩn diễn giải.Khuyến nghịHội đồng khuyến nghị rằng tình trạng của ER và PgR nên được xác định trên tất cả các trường hợp ung thư vú xâm lấn và các trường hợp tái phát ung thư vú. Một thuật toán xét nghiệm dựa trên hiệu suất xét nghiệm chính xác, có thể tái tạo được đề xuất. Những yếu tố để giảm bớt sự biến động của xét nghiệm được chỉ định cụ thể. Khuyến cáo rằng xét nghiệm ER và PgR được coi là dương tính nếu có ít nhất 1% nhân khối u dương tính trong mẫu xem xét trong sự hiện diện của phản ứng dự kiến của các yếu tố kiểm soát nội bộ (các yếu tố biểu mô bình thường) và kiểm soát bên ngoài. Sự không có lợi từ liệu pháp nội tiết cho phụ nữ với ung thư vú xâm lấn ER âm tính đã được xác nhận qua các tổng số lớn các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
#hướng dẫn #đánh giá #thụ thể estrogen #thụ thể progesterone #tính dự đoán #ung thư vú #xét nghiệm mô hóa miễn dịch #hiệu suất xét nghiệm #biến số tiền phân tích #tiêu chuẩn diễn giải #thuật toán xét nghiệm #liệu pháp nội tiết #ung thư vú xâm lấn #kiểm soát nội bộ #kiểm soát ngoại vi.
Béo phì và sinh nhiệt liên quan đến việc tiêu thụ caffeine, ephedrine, capsaicin, và trà xanh
American Journal of Physiology - Regulatory Integrative and Comparative Physiology - Tập 292 Số 1 - Trang R77-R85 - 2007
Tỷ lệ béo phì toàn cầu đã tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Các phương pháp quản lý béo phì, bao gồm caffeine, ephedrine, capsaicin và trà xanh đã được đề xuất như là chiến lược giảm cân và duy trì cân nặng, vì chúng có thể làm tăng tiêu hao năng lượng và có khả năng chống lại sự giảm tốc độ chuyển hóa xuất hiện trong quá trình giảm cân. Sự kết hợp giữa caffeine và ephedrine đã chứng minh hiệu quả trong việc quản lý cân nặng lâu dài, có khả năng do các cơ chế khác nhau có thể hoạt động đồng thời, ví dụ, tương ứng ức chế sự phân hủy cAMP do phosphodiesterase gây ra và tăng cường sự giải phóng catecholamine của hệ thần kinh giao cảm. Tuy nhiên, tác dụng phụ của ephedrine ngăn cản tính khả thi của phương pháp này. Capsaicin đã chứng minh hiệu quả, tuy nhiên khi sử dụng trong lâm sàng đòi hỏi sự tuân thủ chặt chẽ về liều lượng, điều này chưa được chứng minh là khả thi. Cũng có các hiệu ứng tích cực đối với quản lý cân nặng đã được chứng minh bằng việc sử dụng hỗn hợp trà xanh. Trà xanh, bằng cách chứa cả catechin trà và caffeine, có thể hoạt động qua ức chế catechol O-methyl-transferase và ức chế phosphodiesterase. Ở đây, các cơ chế cũng có thể hoạt động đồng thời. Ngoài ra, catechin trà có tính chất chống tạo mạch máu có thể ngăn ngừa sự phát triển của thừa cân và béo phì. Hơn nữa, hệ thần kinh giao cảm tham gia vào điều tiết sự phân giải lipid, và sự chi phối của hệ thần kinh giao cảm đến mô mỡ trắng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết tổng thể mỡ cơ thể.
#Béo phì #sinh nhiệt #caffeine #ephedrine #capsaicin #trà xanh #quản lý cân nặng #tiêu hao năng lượng #catecholamine #tùy chỉnh liều dùng #ức chế phosphodiesterase #tránh thừa cân #hệ thần kinh giao cảm #phân giải lipid #chuyển hóa
Phát hiện 3-hydroxypalmitic acid methyl ester là chất tự điều hòa mới kiểm soát độc lực trong <i>Ralstonia solanacearum</i>
Molecular Microbiology - Tập 26 Số 2 - Trang 251-259 - 1997
Biểu hiện của các gen độc lực trong Ralstonia solanacearum, một loại vi khuẩn gây bệnh thực vật, được kiểm soát bởi một mạng lưới điều hòa phức tạp tích hợp đa tín hiệu. Sự sản xuất của một số yếu tố độc lực bị giảm đồng bộ khi phcB bị bất hoạt, nhưng được phục hồi khi phát triển trong sự hiện diện của một yếu tố ngoại bào bay hơi (VEF) do các chủng hoang dại của R. solanacearum tạo ra. VEF đã được tinh chế từ môi trường nuôi cấy thải qua quá trình chưng cất, chiết xuất bằng dung môi và sắc ký lỏng. Sắc ký khí và phổ khối lượng xác định 3-hydroxypalmitic acid methyl ester (3‐OH PAME) là thành phần chính trong đỉnh duy nhất của hoạt tính VEF. Chất 3‐OH PAME tinh khiết và VEF được tinh chế hoạt động ở ≤1 nM, và có hoạt tính đặc hiệu gần như tương đương để kích thích sự biểu hiện của eps (vị trí sinh tổng hợp polysaccharide ngoại bào) trong một đột biến phcB. 3‐OH PAME tinh khiết cũng tăng cường sản xuất ba yếu tố độc lực lên hơn 20 lần so với mức hoang dại, khôi phục biểu hiện liên kết mật độ tế bào bình thường của eps và tăng cường biểu hiện của eps khi được cung cấp qua pha hơi. Phân tích lại chuỗi amino acid của PhcB gợi ý rằng nó là một phân tử nhỏ S-adenosylmethionine methyltransferase phụ thuộc, có thể xúc tác tổng hợp 3‐OH PAME từ một acid béo tự nhiên. Nồng độ hoạt tính sinh học của 3‐OH PAME ngoại bào được phát hiện trước khi bắt đầu biểu hiện của eps, gợi ý rằng nó là một tín hiệu liên tế bào tự điều hòa biểu hiện gen độc lực trong R. solanacearum hoang dại. Ngoài acyl‐homoserine lactones, 3‐OH PAME là dẫn xuất acid béo nội sinh duy nhất được chứng minh là một chất tự điều hòa và có thể là ví dụ đầu tiên của một họ hợp chất mới có khả năng trung gian cho giao tiếp liên tế bào ở khoảng cách xa.
#virulence #Ralstonia solanacearum #phcB #3-hydroxypalmitic acid methyl ester #extracellular signaling #methyltransferase #intercellular communication
Làm sạch kho hạt giống của cây bách phương tây bởi các động vật gặm nhấm phân thủy, thay đổi theo loại vi mô và loại tán
Integrative Zoology - Tập 17 Số 2 - Trang 192-205 - 2022
**Mô tả** Các loài gặm nhấm phân thủy lưu trữ hạt giống khắp nơi trong khu vực hoạt động của chúng trong những hầm chứa nông cạn trên bề mặt, khác với những hạt giống dự trữ sâu trong hang ổ, rất khó bảo vệ. Các hạt giống đã được chôn thường bị trộm cắp bởi các loài gặm nhấm khác và hoặc được tái chôn, ăn hoặc đưa vào kho dự trữ. Những chuyển động của hạt giống như vậy có thể ảnh hưởng đến quá trình nảy mầm vì chỉ những hạt giống còn lại trong kho mới có khả năng nảy mầm. Mặc dù tầm quan trọng của các loài gặm nhấm phân thủy trong việc phân tán hạt giống cây bách phương tây gần đây đã được làm rõ, nhưng mức độ đánh cắp sau lần chôn đầu tiên vẫn chưa được biết. Đặc điểm của hạt giống, độ ẩm đất và chất nền có thể ảnh hưởng đến quá trình đánh cắp, nhưng ít ai biết về sự thay đổi của việc đánh cắp giữa các hầm chứa ở các vi mô trống trải khác nhau so với dưới các tán cây, hoặc cách phát hiện và loại bỏ kho chứa thay đổi giữa các loại tán khác nhau, giữ cây so với bụi cây. Chúng tôi đã so sánh việc loại bỏ các hầm chứa nhân tạo giữa các vi mô trống trải và dưới các tán cây và bụi cây tại hai địa điểm ở đông bắc California vào mùa xuân và mùa thu. Chúng tôi cũng đã sử dụng camera theo dõi tại một địa điểm để giám sát việc loại bỏ hầm chứa nhân tạo, xác định những kẻ đánh cắp có tiềm năng, và làm sáng tỏ cách sử dụng vi mô của các động vật gặm nhấm phân thủy. Loại bỏ hầm chứa nhân tạo diễn ra nhanh chóng hơn ở các vi mô trống trải tại cả hai địa điểm vào cả hai mùa, và nhiều hầm chứa bị loại khỏi dưới tán bụi cây hơn so với dưới tán cây. Chuột kangaroo California là loài được quan sát thấy nhiều nhất trên camera, thường xuyên kiếm ăn trong các vi mô trống trải, điều này có thể giải thích cho mô hình đánh cắp đã quan sát được. Đây là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận sự đánh cắp hạt giống bách phương tây, cung cấp thêm bằng chứng về tầm quan trọng của hành vi kiếm ăn của động vật gặm nhấm phân thủy trong việc hiểu rõ quá trình phát triển cây dương sỉ trong khu vực rừng thông juniper.
#cây juniper phương tây #động vật gặm nhấm phân thủy #trộm cắp hạt giống #sinh thái vi mô #cây bụi #cây gỗ #chuột kangaroo California #sự phân tán hạt giống #phát triển cây dương sỉ #rừng thông juniper
Sử dụng than tràm, than tre, than trấu và than hoạt tính gáo dừa làm giảm tác động của Fenobucarb đến Enzyme Cholinesterase được tách chiết từ cá rô đồng (anabas testudineus)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 2 - Trang 733-740 - 2018
Sử dụng than tràm, than tre, than trấu và than hoạt tính gáo dừa làm giảm tác động của thuốc bảo vệ thực vật chứa hoạt chất Fenobucarb đến enzyme cholinesterase (ChE) ở cá Rô đồng (Anabas testudineus) được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm. Dung dịch thuốc bảo vệ thực vật chứa Fenobucarb (12mg/L) được chuẩn bị từ Bassa 50 EC (Chứa 50% khối lượng Fenobucarb). Mỗi loại than được bố trí gồm đối chứng (không thuốc), đối chứng có thuốc nhưng không than, và than đã nghiền nhỏ (1 – 2 mm) với các mức 1, 2, 3, 5 và 7 g/L. Sau khi cho than vào thì lắc 100 vòng/phút ở các thời gian lưu 30, 60, 90 và 120 phút. Sau đó cho cá phơi nhiễm trong các dung dịch này trong 3 giờ rồi thu mẫu cá phân tích hoạt tính enzyme ChE trong mô não. Kết quả cho thấy than tre, than tràm, than trấu và than hoạt tính gáo dừa có thể làm giảm ảnh hưởng của Fenobucarb đến ChE ở cá rô đồng. Tỷ lệ làm giảm tăng theo trình tự: than hoạt tính > than trấu > than tràm > than tre. Qua nghiên cứu cho thấy có thể sử dụng than xử lý ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật chứa hoạt chất Fenobucarb. ABSTRACTUsing biochar making from bamboo, melaleuca, rice husk and activated coconut shell for reducing effect of fenobucarb on brain cholinesterase activity of climbing perch (Anabas testudineus) was done in laboratory condition. Fenobucarb solution (12 mg/L) was prepared from commercial Bassa 50EC (Contained 50% fenobucarb in weight). Each kind of biochar was conducted with control (no fenobucarb), fenobucarb (no biochar) and biochar (1, 2, 3, 5 and 7 g/L) for retention time 30, 60, 90 and 120 minutes. Afterward, fish was exposed into each treatment for 3 hours and then sampled for brain cholinesterase assay. The results showed that bamboo, melaleuca, rice husk and activated coconut shell biochar can reduce effects of fenobucarb on cholinesterase. The efficiency of reduction was in order: activated coconut shell biochar > rice husk > melaleuca > bamboo. These results indicated that above biochar can be used to treat fenobucarb pollution.  
#Anabas testudineus #Cholinesterase #Fenobucarb #than #biochar
Tổng hợp và đặc trưng xúc tác enzymlipase cố định trênnano từ tính ứng dụng cho quá trình chuyển hóa biodiesel từ dầu đậu nành
Tạp chí Dầu khí - Tập 11 - Trang 37-42 - 2013
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tổng hợp các hạt nano từ tính chitosan-Fe3O4 bằng phương pháp đồng kết tủa sử dụng glutaraldehyde là tác nhân tạo liên kết ngang cho cố định hóa enzyme lipase. Enzyme lipase được cố định trên cơ sở tạo liên kết peptit thông qua cầu nối là glutaraldehyde với các hạt nano từ tính chitosan-Fe3O4. Đặc trưng của hệ xúc tác được phân tích bằng các phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD), hiển vi điện tử quét (SEM), hiển vi điện tử truyền qua (TEM) và phổ hồng ngoại (FT-IR). Qua đặc trưng của phương pháp cho thấy, enzyme lipase được cố định trên các hạt nano từ tính, các hạt có dạng vi cầu, với kích thước từ 12 - 15nm. Hệ xúc tác tổng hợp được sử dụng cho quá trình trao đổi ester hóa chéo thành methyl ester với độ chuyển hóa 93% trong 30 giờ phản ứng, ở nhiệt độ 40oC, sử dụng methanol cho quá trình phản ứng theo 3 giai đoạn và tỷ lệ mol dầu/methanol là 1:4.
#-
Đặc điểm địa hóa đá mẹ Cenozoic khu vực thềm lục địa Tây Nam Việt Nam
Tạp chí Dầu khí - Tập 7 - Trang 14-22 - 2016
Hiện nay, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và các nhà thầu dầu khí đã ký nhiều hợp đồng phân chia sản phẩm tại các Lô 46/07, 48/95, 50, 51, B và 52/97 thuộc thềm lục địa Tây Nam Việt Nam. Các nhà thầu đã khoan hàng loạt giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí trên hầu khắp các lô. Nhiều tích tụ dầu và khí với quy mô khác nhau đã được tìm thấy trong vùng nghiên cứu. Nhóm tác giả đã sử dụng số liệu phân tích địa hóa từ hàng nghìn mẫu đá tại một số giếng khoan trên các Lô 46/07, 48/95, 50, 51, B và 52/97 để đánh giá đá mẹ trong vùng nghiên cứu. Kết quả cho thấy: trầm tích tuổi Oligocene và Miocene sớm đạt tiêu chuẩn đá mẹ về tiềm năng hữu cơ; đá mẹ Miocene dưới chứa vật chất hữu cơ loại III, có sự tham gia của vật chất hữu cơ loại I, khả năng sinh khí là chính; đá mẹ Oligocene chứa vật chất hữu cơ có nguồn gốc algal đầm hồ và hỗn hợp giữa vật chất hữu cơ đầm hồ và lục địa, kerogen trong chúng là loại I và hỗn hợp loại I và loại III, có khả năng sinh dầu và khí; vật chất hữu cơ trong đá mẹ ở khu vực Đông Nam vùng nghiên cứu có khả năng sinh dầu tốt hơn ở khu vực Tây Bắc; chỉ có đá mẹ Oligocene và phần dưới của Miocene dưới đủ điều kiện sinh và cung cấp hydrocarbon cho các bẫy trong vùng nghiên cứu.
#South-western continental shelf of Vietnam #source rock #oil and gas #kerogen type III #mixture of type I and III
Nghiên cứu tiềm năng khoáng sản rắn đáy biển hiện diện trong các mẫu oxide sắt mangan ở phía Tây Nam Biển Đông
Tạp chí Dầu khí - Tập 8 - Trang 34 - 44 - 2020
Khu vực các bể trầm tích Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây được dự báo còn có tiềm năng lớn về khoáng sản rắn đáy biển liên quan đến kết hạch sắt mangan (Fe-Mn) hay vỏ Fe-Mn. Kết quả phân tích mẫu oxide Fe-Mn ở phía Tây Nam Biển Đông cho thấy các mẫu được nghiên cứu có hàm lượng Fe-Mn trung bình từ 15 - 21%, đi kèm là các nguyên tố kim loại có giá trị khác như Ni (1.932 ppm), Co (485 ppm), Cu (286 ppm), Ba (3.836 ppm), Ti (11.092 ppm), Mo (240 ppm), V (516 ppm), Pb (1.455 ppm), Zn (573 ppm)… Ngoài ra, các nguyên tố hiếm cũng chiếm tỷ lệ khá cao (trung bình 370 ppm/mẫu), trong đó hàm lượng La (52 ppm), Ce (168 ppm), Nd (43 ppm) có tỷ lệ lớn hơn các nguyên tố khác. Các mẫu này được h.nh thành chủ yếu trong quá trình hydro hóa (hydrogenetic) và quá trình hỗn hợp giữa hydro hóa và thủy nhiệt (hydrothermal). Nguồn gốc hình thành các mẫu oxide Fe-Mn này liên quan chặt chẽ tới quá trình tích tụ các nguyên tố đất hiếm như La, Ce, Pr, Nd, Sm, Eu, Gd, Tb, Dy, Ho, Er, Tm, Yb, Lu...
#Hard minerals #hydrogenetic process #hydrothermal #Pliocene - Quaternary #Fe-Mn oxide #Nam Con Son basin #Tu Chinh - Vung May basin #southwestern area of the East Sea
Tổng số: 68   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7